Trong những năm qua nhiều nghiên cứu đã công bố các mối quan hệ giữa nước uống và tử vong do bệnh tim mạch. Hai yếu tố mang lại lợi ích đã liên tục được đưa ra là độ cứng và tổng chất rắn hòa tan. Cả hai yếu tố có tác dụng giảm tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch.
Nội dung chính
1. Nước cứng và bệnh tim mạch
Nước cứng ( Hard Water) là nước có hàm lượng khoáng chất Cation Canxi (Ca2+) và Magie (Mg2+) cao. Nước cứng có được là do nguồn nước ngầm đi qua các lớp đất đá, đá vôi, từ đó hòa tan các ion Ca2+, Mg2+ có trong đất đá và làm tăng độ cứng trong nước.
Năm 1979 sau khi xem xét 50 nghiên cứu, Comstock kết luận: Có thể có dấu hiệu về sự tương quan giữa độ cứng của nước với tỷ lệ tử vong tim mạch.
Giáo sư Ragnar Rylader lưu ý rằng các nghiên cứu ở Thụy Sĩ, Đức và Thụy Điển cho thấy khi Mg trong nước uống vượt quá 10-15 mg / L, tỷ lệ chết giảm so với các cộng đồng lân cận có hàm lượng Mg trong nước nhỏ hơn.
Ngày nay, sau ba mươi năm nghiên cứu nhiều kết luận được đưa ra uống nước cứng sẽ làm giảm bệnh tim mạch hơn so với uống nước mềm.
>>>Xem thêm: Uống nước cứng có gây hại gì cho sức khỏe không?
2. Tổng chất rắn hòa tan (TDS) và bệnh tim mạch
TDS (Total Dissolved Solids) là chỉ số thể hiện tổng chất rắn hòa tan tồn tại trong một thể tích nhất định. TDS không chỉ bao gồm canxi và magiê (các yếu tố độ cứng) mà còn kẽm, đồng, crom, selen …
Thông thường nước cứng có TDS cao. Mặc dù hầu hết các nghiên cứu về bệnh tim đã không kiểm tra TDS mà chỉ kiểm tra độ cứng. Yếu tố TSD có mặt và có thể đóng vai trò rất quan trọng.
Tác giả Sauer đã phân tích 23 đặc trưng nước uống trong 92 thành phố (“Mối quan hệ của nước đến Rủi ro tử vong”) và nhận thấy, những người uống nước có TDS cao hơn có tỷ lệ tử vong thấp hơn do bệnh tim, ung thư, và bệnh mãn tính so với những người uống nước có TDS thấp.
3. Một số nghiên cứu chính
Ở Anh,British Regional Heat Study đã phân tích 253 thị trấn từ năm 1969 đến 1973. Họ nhận thấy tử vong do tim mạch nhiều hơn khi uống nước mềm nhiều hơn 10% đến 15% so với nước cứng. Họ khuyến cáo lượng lý tưởng của độ cứng là khoảng 170 mg/L (hay ppm – một phần triệu).
Tại Hoa Kỳ, Greathouse và Osborne nghiên cứu 4200 người lớn, lứa tuổi 25-74 tại 35 khu vực địa lý khác nhau. Họ phát hiện tỷ lệ tử vong do bệnh tim trong vùng nước cứng thấp hơn các vùng nước mềm.
Một báo cáo của phòng thí nghiệm quốc giá OakRidge phát hiện ra rằng canxi và magiê trong nước cứng làm giảm nguy cơ đau tim và đột quỵ. Nghiên cứu này so sánh các hồ sơ y tế của 1.400 nông dân nam ở Wisconsin uống nước giếng từ trang trại của mình. Những người nông dân uống nước mềm bị bệnh tim, trong khi nông dân uống nước cứng không gặp phải vấn đề này.
4. Kết luận của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia
Khi nhìn vào các nghiên cứu, có hai vấn đề nổi bật. Trước tiên là một mối quan hệ xác định, một sự liên quan rõ ràng giữa độ cứng của nước và tỷ lệ tử vong bệnh tim. Chúng ta nên cố gắng uống nước có độ cứng khoảng 170 mg / L, hàm lượng được thấy lý tưởng trong Vương quốc Anh.
Thứ hai, có một mối quan hệ nhất định giữa TDS và bệnh tim. TDS cao sẽ giảm bệnh tim. Mức độ thích hợp của độ cứng và TDS là hai trong số các đặc tính có lợi trong thành phần nước uống.
Khi sử dụng nước có độ cứng và TDS thích hợp nước uống có thể làm giảm tử vong do tim mạch lên 15% ở Mỹ. Chúng ta nên cố gắng uống nước có độ cứng khoảng 170 mg / L, hàm lượng được thấy lý tưởng trong Vương quốc Anh.
Lời khuyên
Sử dụng nước sạch thôi là chưa đủ. Bộ lọc tối ưu là bộ lọc đã được kiểm nghiệm và chứng minh hiệu quả trong việc giảm các chất gây ô nhiễm và vẫn giữ các khoáng chất có lợi như canxi và magiê.
Một số quốc gia quy định về hàm lượng khoáng chất trong nước như sau:
CH Sec: Canxi > 30 (mg/l), Magie > 10 (mg/l) và độ cứng > 100 (mg/l).
Hungary: Độ cứng từ 50 (mg/l) đến 350 (mg/l).
Ba lan: Độ cứng 60 (mg/l) đến 500 (mg/l).
Slovakia: Canxi > 30 ppm và magie > 10 (mg/l).
>>> Xem thêm: Nước ion canxi và bệnh tim mạch