Thành phần của nước rất khác nhau theo điều kiện địa chất của từng khu vực. Cả nước ngầm và nước mặt đều không phải là H2O tinh khiết về mặt hóa học, vì nước chứa một lượng nhỏ khí, khoáng chất và chất hữu cơ có nguồn gốc tự nhiên. Ngoài những khoáng chất cần thiết và tốt cho sức khỏe nhiều tác nhân gây bệnh qua đường nước đã được phát hiện, trong nước có thể chứa một số thành phần không mong muốn làm ảnh hưởng đến sức khỏe chính vì thế bộ Y tế đã có những quy định chặt chẽ về hàm lượng các chất trong nước. Tuy nhiên một số tác động từ nước làm ảnh hưởng tới sức khỏe không phải do các tạp chất trong nước và thường không được đề cập và xem xét đến đó là các loại nước khử khoáng hay còn gọi là nước mềm. Loại nước này thường có ở những vùng có ít khoáng hoặc nước được làm mềm nhân tạo.
Nội dung chính
- 1 Nước khử khoáng là gì?
- 2 Rủi ro sức khỏe khi uống nước khử khoáng
- 2.1 Ảnh hưởng trực tiếp lên màng nhầy ruột, chuyển hóa và cân bằng nội môi hoặc ảnh hưởng tới các chức năng khác của cơ thể
- 2.2 Mất canxi, magiê và các nguyên tố cần thiết khác trong chế biến thức ăn
- 2.3 Chế độ ăn có thể tăng lượng kim loại độc hại
- 2.4 Tiêu thụ thấp một số nguyên tố cần thiết và vi lượng từ nước có hàm lượng khoáng chất thấp
- 3 Kết luận
Nước khử khoáng là gì?
Nước khử khoáng là nước đã được loại bỏ tất cả các khoáng chất, ion và muối, tạo ra sản phẩm siêu tinh khiết. Có một số cách để loại bỏ khoáng chất khỏi nước bao gồm trao đổi ion, thẩm thấu ngược và điện cực hóa. Những phương pháp này rất hiệu quả trong việc loại bỏ hầu hết các khoáng chất, bao gồm canxi, sắt, magiê, nitrat, natri, sunfat và hơn thế nữa.
Rủi ro sức khỏe khi uống nước khử khoáng
Những hậu quả bất lợi có thể có của việc tiêu thụ nước có hàm lượng khoáng chất thấp đã được liệt kê sau đây:
- Ảnh hưởng trực tiếp lên màng nhầy ruột, chuyển hóa và cân bằng nội mô hoặc ảnh hưởng tới các chức năng khác của cơ thể.
- Mất canxi, magiê và các nguyên tố cần thiết khác trong chế biến thức ăn.
- Chế độ ăn có thể tăng lượng kim loại độc hại.
- Ít hoặc không hấp thụ canxi và magie từ nước có hàm lượng khoáng chất thấp.
- Cung cấp ít các nguyên tố cần thiết và vi lượng khác cho cơ thể.
Ảnh hưởng trực tiếp lên màng nhầy ruột, chuyển hóa và cân bằng nội môi hoặc ảnh hưởng tới các chức năng khác của cơ thể
Điều này đã được chứng minh rằng tiêu thụ nước có hàm lượng khoáng chất thấp có ảnh hưởng tiêu cực đến cơ chế cân bằng nội môi, ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất khoáng và nước trong cơ thể. Các thử nghiệm ở động vật, chủ yếu là chuột, trong khoảng thời gian lên đến một năm cho thấy rằng việc uống nước cất hoặc nước có TDS ≤ 75 mg / L dẫn đến:
- Uống nhiều nước, tăng bài tiết, tăng hàm lượng natri, clorua trong dịch làm thay đổi cân bằng trong cơ thể.
- Giảm lượng hồng cầu.
- Mặc dù Rakhmanin và cộng sự không quan sát thấy hiệu ứng đột biến nào, nhưng họ quan sát thấy giảm bài tiết triiodothyronine và aldosterone, tăng bài tiết cortisol, sự thay đổi hình thái học trong thận cũng làm giới hạn lưu lượng máu.
- Giảm khả năng hình thành xương ở thai nhi chuột cũng đã được ghi nhận sau khi chuột mẹ cho uống nước tách ion trong 1 năm. Rõ ràng là lượng khoáng chất trong nước không thể bù đắp từ thức ăn mặc dù nguồn thức ăn được giữ ổn định đủ năng lượng và khoáng chất.
Mất canxi, magiê và các nguyên tố cần thiết khác trong chế biến thức ăn
Khi được sử dụng để nấu ăn, nước mềm được phát hiện là gây ra sự mất mát đáng kể của tất cả các các yếu tố từ thực phẩm (rau, thịt, ngũ cốc). Những tổn thất như vậy có thể lên đến 60% đối với magiê và canxi hoặc thậm chí nhiều hơn đối với một số nguyên tố vi lượng khác.
Ngược lại, khi sử dụng nước cứng để nấu ăn, sự mất mát của các nguyên tố này thấp hơn và trong một số trường hợp, hàm lượng canxi thậm chí cao hơn đã được báo cáo trong thực phẩm do nấu ăn.
Chế độ ăn uống hiện tại của nhiều người thường không cung cấp đủ số lượng các nguyên tố cần thiết, và do đó, yếu tố dẫn đến mất các nguyên tố và chất dinh dưỡng cần thiết trong quá trình chế biến và việc chuẩn bị thức ăn có thể gây thiếu hụt các khoáng chất cần thiết cho cơ thể.
Chế độ ăn có thể tăng lượng kim loại độc hại
Nguy cơ gia tăng các kim loại độc hại có thể do nước có hàm lượng khoáng thấp gây ra theo hai cách:
1. Nước khử khoáng có khả năng rửa trôi kim loại từ các vật liệu tiếp xúc với nước làm tăng hàm lượng kim loại trong nước uống.
Nước có độ khoáng thấp không ổn định và do đó có tính thẩm thấu cao đối với các vật liệu mà nó tiếp xúc. Nước như vậy dễ hòa tan kim loại và một số chất hữu cơ từ đường ống, lớp phủ, bể chứa và thùng chứa.
2. Nước có hàm canxi và magiê thấp làm giảm khả năng bảo vệ và chống lại tác động của kim loại độc hại.
Canxi và magiê trong nước và thực phẩm được biết là có hoạt tính chống độc. Chúng có thể giúp ngăn chặn sự hấp thụ một số nguyên tố độc hại như chì và cadimi từ ruột vào máu, thông qua phản ứng trực tiếp dẫn đến hình thành một hợp chất không thể hấp thụ hoặc dễ dàng hấp thụ các khoáng chất đào thải các chất độc hại.
Tiêu thụ thấp một số nguyên tố cần thiết và vi lượng từ nước có hàm lượng khoáng chất thấp
Chế độ ăn uống của nhiều người có thể không phải là nguồn cung cấp đầy đủ các chất khoáng và vi lượng. Khi đó các khoáng chất trong nước có thể đóng một vai trò rất quan trọng trong việc bổ sung các hàm lượng khoáng chất cần thiết cho cơ thể. Các nguyên tố thường có trong nước dưới dạng các ion tự do và do đó, dễ hấp thụ từ nước hơn so với thực phẩm, do trong thực phẩm các khoáng chất hầu như liên kết với các chất khác.
Lutai (37 tuổi) đã thực hiện một nghiên cứu dịch tễ học ở vùng Ust-Ilim của Nga. Nghiên cứu tập trung vào bệnh tật và phát triển thể chất ở 7658 người lớn, 562 trẻ em và 1582 phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh của họ ở hai khu vực được cung cấp nước khác nhau về TDS. Một trong những khu vực này được cung cấp nước có hàm lượng khoáng chất thấp hơn (giá trị trung bình: TDS 134 mg/l, canxi 18,7 mg/l, magiê 4,9 mg/l, bicarbonat 86,4 mg/l) và loại còn lại được cung cấp nước cao hơn về khoáng chất (giá trị trung bình: TDS 385 mg/l, canxi 29,5 mg/l, magiê 8,3 mg/l, bicarbonat 243,7 mg/l). Dân số của hai khu vực không khác nhau về thói quen ăn uống, chất lượng không khí, điều kiện xã hội và thời gian cư trú tại các khu vực tương ứng. Dân số của khu vực được cung cấp nước có hàm lượng khoáng chất thấp hơn cho thấy tỷ lệ mắc bệnh bướu cổ, tăng huyết áp, thiếu máu cơ tim, loét dạ dày và tá tràng, viêm dạ dày mãn tính, viêm túi mật và viêm thận. Trẻ em sống trong khu vực này có biểu hiện chậm hơn về thể chất phát triển và nhiều bất thường về tăng trưởng hơn, phụ nữ mang thai thường xuyên bị phù và thiếu máu. Trẻ sơ sinh ở khu vực này có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn. Tỷ lệ mắc bệnh thấp nhất là liên quan đến nước có mức canxi 30-90 mg/l, mức magiê 17-35 mg/l, và TDS khoảng 400 mg/l (đối với nước có chứa bicarbonate).
Dựa trên dữ liệu hiện có, các nhà nghiên cứu khác nhau đã khuyến nghị rằng các mức canxi, magiê và độ cứng của nước sau đây nên có trong nước uống:
- Đối với magiê, tối thiểu là 10 mg/l và tối ưu là khoảng 20-30 mg/l
- Đối với canxi, tối thiểu là 20 mg/l và tối ưu là khoảng 50 (40-80) mg/l
- Đối với tổng độ cứng của nước, tổng lượng canxi và magiê phải là 2 đến 4 mmol / l tương đương độ cứng tính theo CaCO3 là 200 đến 400 mg/l
Kết luận
Nước uống cần chứa một lượng tối thiểu các khoáng chất cần thiết và các thành phần khác kể cả bicarbonat. Nhưng trong hơn 2 thập kỷ, rất ít nghiên cứu tập trung vào tác dụng của các hợp chất trong nước uống. Tập trung chính là vào các chất độc trong nước. Một số nghiên cứu cố gắng xác định lượng chất cần thiết tối thiểu trong nước uống và một số nước đưa các tiêu chuẩn một số chất xác định trong nước uống.
Vì vậy các cơ quan phụ trách tiêu chuẩn chất lượng nước của quốc tế và quốc gia cũng cần lưu ý đến nước khử khoáng, đặc biệt là lượng tối thiểu các nguyên tố như canxi, magiê và TDS. Ngoài ra cũng cần nghiên cứu thêm những tác dụng có lợi cho sức khỏe của các thành phần trong nước. Khi đưa ra các tiêu chuẩn cho nước khử khoáng, các cơ quan cũng cần đề cập đến các bộ xử lý nước ở quy mô gia đình.
>>> Nguồn: Health risks from drinking demineralised water
>>> Xem thêm: Lựa chọn loại nước uống thích hợp để giảm tỉ lệ tử vong do tim mạch