Hiện nay có rất nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra các bằng chứng về mối liên hệ giữa nước cứng và sức khỏe. Ngoài ra, một số cuộc điều tra dịch tễ học đã chứng minh mối liên quan giữa độ cứng của nước uống và nguy cơ mắc bệnh tim mạch, chậm phát triển, suy sinh sản. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu về mối liên hệ giữa nước cứng và sức khỏe.
Nội dung chính
Giới thiệu về nước cứng
Nước rất cần cho sự sống, cơ thể chúng ta chiếm 70 % là nước, việc sử dụng nguồn nước không chỉ sạch mà còn tốt cho sức khỏe là rất quan trọng.
Nước cứng thường được định nghĩa là nước có chứa hàm lượng các ion canxi và magiê cao.
Nước cứng được chia làm hai loại nước cứng vĩnh cửu ( độ cứng phi cacbonat) và nước cứng tạm thời (độ cứng cacbonat):
- Nước cứng vĩnh cửu nước cứng chứa các anion phi cacbonat như: CaCl2, MgCl2, CaSO4, MgSO4
- Nước cứng tạm thời là nước cứng chứa các anion cacbonat như: CaCO3, MgCO3, Ca(HCO3)2, Mg(HCO3)2
Độ cứng tạm thời có thể loại bỏ bằng cách đun sôi, còn độ cứng vĩnh cửu không thể loại bỏ bằng cách đun sôi vì thế được gọi là độ cứng vĩnh cửu.
Độ cứng thường xâm nhập vào nước ngầm khi nước thấm qua các khoáng chất có chứa canxi hoặc magiê. Các nguồn phổ biến nhất của độ cứng là đá vôi (đưa canxi vào nước) và đá dolomit (đưa magiê vào.) Vì vậy, độ cứng xâm nhập vào nước theo những cách trên, nước ngầm thường có độ cứng lớn hơn nước mặt.
Nước cứng và sức khỏe
WHO cho biết tại Hội nghị Geneva của mình, nước cứng không có tác dụng phụ đối với sức khỏe. Ngoài ra, nước cứng, đặc biệt là nước rất cứng, có thể đóng góp quan trọng bổ sung vào tổng lượng canxi và magiê. Nước uống có cả magiê và sulfat ở nồng độ cao (~ 250 mg / l mỗi loại) có thể có tác dụng nhuận tràng. Tác dụng nhuận tràng cũng có liên quan đến lượng magiê dư thừa được dùng dưới dạng chất bổ sung, nhưng không phải với magiê trong chế độ ăn uống.
Nước cứng và bệnh tim mạch
Trong hầu hết các nghiên cứu được đưa ra về mối quan hệ nghịch đảo giữa độ cứng của nước uống và bệnh tim mạch.
Trong một nghiên cứu về sự khác biệt giữa các khu vực trong tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch ở 76 thành phố ở miền trung Thụy Điển, người ta đã tìm thấy một sự liên hệ giữa các khu vực phía tây có tỷ lệ tử vong cao và nước mềm và các khu vực phía đông có tỷ lệ tử vong thấp và nước cứng.
Các nghiên cứu trước đó đã tìm thấy mối tương quan tích cực giữa nước và huyết áp. Ở Phần Lan và Nam Phi, người ta thấy rằng tỷ lệ tử vong do thiếu máu cơ tim tỷ lệ nghịch với nồng độ magiê trong nước uống và cũng trong một nghiên cứu ở Thụy Điển, magiê và canxi trong nước uống có liên quan với tỷ lệ tử vong do nhồi máu cơ tim cấp ở phụ nữ thấp hơn.
Ngày nay, sau ba mươi năm nghiên cứu người ta đã kết luận rằng uống nước cứng sẽ làm giảm bệnh tim mạch hơn so với uống nước mềm. Độ cứng lý tưởng là 170 ppm.
Nước cứng và bệnh ung thư
Các phát hiện quan trọng trong lĩnh vực này đã được các nhà khoa học Đài Loan cung cấp gần đây. Trong hầu hết các nghiên cứu của họ, các tác giả đã chỉ ra mối liên hệ giữa tỷ lệ mắc và tử vong do ung thư với độ cứng của nước. Một điều đáng chú ý là các kết quả liên quan đến mối liên quan có thể có giữa nguy cơ ung thư dạ dày và mức độ canxi, magiê. Một số nghiên cứu cho thấy có tác dụng bảo vệ đáng kể lượng canxi từ nước uống vào nguy cơ ung thư dạ dày. Magiê cũng có tác dụng bảo vệ chống lại ung thư dạ dày, nhưng chỉ đối với nhóm có mức độ tiếp xúc với magiê cao nhất.
Trong một nghiên cứu khác, các tác giả đã tìm thấy mối liên quan có thể có giữa nguy cơ ung thư ruột kết và độ cứng trong nước uống từ các nguồn cung cấp thành phố ở Nhật Bản.
Các phân tích trên cho thấy xu hướng tỷ lệ mắc bệnh ung thư càng tăng thì độ cứng càng giảm trong nước uống.
Nước cứng và tử vong do mạch máu não
Một số báo cáo cho thấy có một tác dụng bảo vệ đáng kể của việc hấp thụ magiê từ nước uống đối với nguy cơ mắc bệnh mạch máu não. Đối với những người bị thiếu magiê, magiê trong nước có thể đóng góp quan trọng vào tổng lượng hấp thụ của họ. Ngoài ra, sự mất magiê từ thực phẩm sẽ thấp hơn khi thực phẩm được nấu trong nước giàu magiê. Magiê trong nước xuất hiện dưới dạng các ion ngậm nước, dễ hấp thụ hơn magiê trong thực phẩm.
Kết luận: Các kết quả của nghiên cứu này cho thấy rằng có một tác dụng bảo vệ đáng kể magiê từ nước uống đối với nguy cơ mắc bệnh mạch máu não. Đây là một phát hiện quan trọng đối với ngành nước Đài Loan và đánh giá rủi ro sức khỏe con người.
Canxi trong chế độ ăn uống là nguồn cung cấp canxi chính. Các nghiên cứu dịch tễ học đã chỉ ra rằng canxi trong chế độ ăn có tỷ lệ nghịch với huyết áp. Với phần lớn các tài liệu dịch tễ học cho thấy mối quan hệ giữa canxi trong chế độ ăn và huyết áp, có vẻ hợp lý khi kỳ vọng rằng lượng canxi trong chế độ ăn có thể làm giảm nguy cơ biến cố tim mạch, chẳng hạn như đột quỵ thường liên quan đến tăng huyết áp.
Nước cứng và dị tật hệ thần kinh trung ương
Dị tật hệ thần kinh trung ương thường phụ thuộc nhiều yếu tố như địa lý, môi trường, các mùa trong năm. Nhiều suy đoán đã được đưa ra do các yếu tố địa lý đã được quan sát thấy trong tỷ lệ mắc bệnh não úng thủy, chẳng hạn như sự hiện diện hoặc không có các nguyên tố vi lượng trong nguồn nước.
Đề xuất này đã được Fedrick tiếp thu. Cô ấy liên hệ dữ liệu về bệnh não úng thủy cho 10 khu vực khác nhau ở Vương quốc Anh (từ 10 nghiên cứu khác nhau và liên quan đến 10 khoảng thời gian khác nhau) với thông tin về nguồn cung cấp nước của những khu vực đó thu được từ nhiều nguồn khác nhau. Cô ấy nhận thấy rằng tần suất xuất hiện bệnh não úng thủy có liên quan đáng kể đến các phép đo tổng độ cứng, hàm lượng canxi và độ pH của nguồn nước địa phương.
Stocks đã kiểm tra tỷ lệ tử vong trung bình hàng năm do các dị tật bẩm sinh ở 15 khu vực bệnh viện của Anh và xứ Wales. Tỷ lệ tử vong cao nhất ở miền Bắc và miền Tây và thấp nhất ở Đông Nam Bộ. Nhận thấy tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch diễn ra theo cùng một mô hình khu vực, ông đã tiến hành tương quan tỷ lệ tử vong do dị tật bẩm sinh ở 15 khu vực với tỷ lệ tử vong của phụ nữ trong độ tuổi 25-54 do các nguyên nhân nhất định ở các khu vực tương ứng. Ông phát hiện ra rằng tỷ lệ tử vong do dị tật ống thần kinh tương quan rất chặt chẽ với tỷ lệ tử vong do các bệnh tim mạch, trong khi các dị tật khác tạo ra mối tương quan không đáng kể. Yếu tố nước có thể là nguyên nhân gây ra các biến đổi theo khu vực của tỷ lệ tử vong do dị tật hệ thần kinh trung ương.
Kết luận
Trước đây chúng ta thường quan tâm đến các chỉ số tối thiểu các chất độc gây hại cho sức khỏe trong nước uống mà không quan tâm đến các chỉ số khoáng chất tốt cho sức khỏe mà nước uống mang lại.
Các nhà nghiên cứu đã khuyến nghị rằng các mức canxi, magiê và độ cứng của nước nên có trong nước uống như sau:
- Đối với magiê, tối thiểu là 10 mg/l và tối ưu là khoảng 20-30 mg/l.
- Đối với canxi, tối thiểu là 20 mg/l và tối ưu là khoảng 50 (40-80) mg/l.
- Đối với tổng độ cứng của nước, tổng lượng canxi và magiê phải là 2 đến 4 mmol/l tương đương độ cứng tính theo CaCO3 là 200 đến 400 mg/l.
Nguồn: Thư viện Y Khoa Hoa Kỳ – Potential Health Impacts of Hard Water
>>> Xem thêm: WHO: Rủi ro sức khỏe khi uống nước khử khoáng